Đánh giá tiềm năng, thực trạng sản xuất nông nghiệp hữu cơ và nhân tố tác động đến quản lý, ra quyết định sản xuất nông nghiệp hữu cơ vùng Trung du miền núi Bắc Bộ

Ngày 15/12, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (KTTVBĐKH) đã tổ chức hội thảo xin ý kiến chuyên gia về “Tiềm năng, thực trạng sản xuất nông nghiệp hữu cơ và nhân tố tác động đến quản lý, ra quyết định sản xuất nông nghiệp hữu cơ vùng Trung du miền núi Bắc Bộ” thuộc đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý và hỗ trợ ra quyết định sản xuất nông nghiệp hữu cơ thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng Trung du miền núi Bắc Bộ”.

TS. Nguyễn Quốc Khánh chủ trì buổi hội thảo

Hội thảo được chủ trì bởi TS. Nguyễn Quốc Khánh (Phó Viện trưởng) với sự tham gia của PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng (Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Biến đổi khí hậu), các chuyên gia thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường và nhóm thực hiện đề tài.

Tại hội thảo, các báo cáo viên đã trình bày nội dung nghiên cứu xoay quanh chủ đề được đưa ra. Cụ thể, trong báo cáo: Nghiên cứu xây dựng bản đồ đơn vị sinh thái và bản đồ phân hạng thích hợp của đất đai của cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản cho 3 tỉnh Sơn La, Thái Nguyên, Phú Thọ đến năm 2030 định hướng 2050, Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Hằng đã trình bày về nguồn dữ liệu, cơ sở toán học, nội dung thể hiện trên bản đồ, phương pháp thành lập bản đồ, yêu cầu về biên tập trình bày bản đồ… Tất cả đều nhằm thiết lập các bản đồ chuyên đề về đơn vị sinh thái và các bản đồ phân hạng mức độ thích hợp của đất đai của cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản để đánh giá tiềm năng sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) phù hợp với điều kiện sinh thái, kinh tế-xã hội vùng Trung du miền núi Bắc Bộ thích ứng với BĐKH và bảo tồn đa dạng sinh học.

Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Hằng trình bày tại hội thảo

Trong báo cáo Đánh giá các yếu tố sinh thái, quy mô sản xuất, nhân tố hỗ trợ, năng suất – sản lượng, giá trị kinh tế và thị trường tác động đến quản lý và ra quyết định sản xuất NNHC của Thạc sĩ Phạm Quang Hiệp đã xây dựng khung phân tích và hệ thống tiêu chí đánh giá toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý và ra quyết định phát triển NNHC vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ. Cho thấy giá trị kinh tế và thị trường là yếu tố có tính quyết định cao nhất, tiếp theo là yếu tố sinh thái, năng suất và sản lượng, quy mô sản xuất và cuối cùng là các nhân tố hỗ trợ. Đồng thời đưa ra những khó khăn chủ yếu hiện nay là thị trường tiêu thụ chưa ổn định, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và rủi ro về năng suất trong giai đoạn chuyển đổi. Do đó, cần ưu tiên phát triển thị trường và chuỗi giá trị, gắn với phân vùng sinh thái hợp lý, tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết, đồng thời tăng cường các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy và duy trì sản xuất NNHC bền vững.

Thạc sĩ Phạm Quang Hiệp trình bày tại hội thảo

TS. Nguyễn Thị Huyền Trang, trong báo cáo của mình đã đánh giá tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ. Nhóm nghiên cứu đã đánh giá toàn diện tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp hữu cơ của vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ. Kết quả khẳng định trồng trọt, đặc biệt là các cây đặc sản và giá trị cao, có lợi thế nổi bật; chăn nuôi và thủy sản có tiềm năng theo các điều kiện sinh thái đặc thù. Ngoài ra, phân tích theo 9 tỉnh cho thấy mỗi địa phương có lợi thế riêng, là cơ sở cho định hướng phát triển nông nghiệp chuyên môn hóa. Có thể thấy, nghiên cứu này đã cung cấp cơ sở khoa học quan trọng phục vụ quy hoạch, lựa chọn sản phẩm ưu tiên và phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững cho toàn vùng.

TS. Nguyễn Thị Huyền Trang báo cáo tại hội thảo

Cuối cùng là báo cáo về thực trạng sản xuất NNHC vùng Trung du miền núi Bắc bộ thích ứng với BĐKH và bảo tồn đa dạng sinh học. Trong báo cáo này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá toàn diện thực trạng sản xuất NNHC vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ trên địa bàn 9 tỉnh, dựa trên phân tích điều kiện tự nhiên, sinh thái, tổ chức sản xuất và chính sách phát triển. Báo cáo đã hệ thống hóa bức tranh tổng thể về NNHC theo các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, đồng thời làm rõ sự phân hóa không gian và lợi thế sinh thái của từng địa phương.

Báo cáo cho thấy, sản xuất NNHC của vùng đã hình thành rõ nét ở một số nhóm sản phẩm chủ lực, đặc biệt là cây dược liệu, chè, quế, hồi và một số cây ăn quả đặc sản, với tổng diện tích hữu cơ toàn vùng đạt trên 20.000 ha. Một số tỉnh như Lào Cai, Thái Nguyên, Sơn La, Lạng Sơn và Tuyên Quang đã xuất hiện các mô hình hữu cơ tiêu biểu, gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị nông sản, cải thiện sinh kế và bảo vệ tài nguyên sinh thái.

PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng đặt câu hỏi tại hội thảo

Tuy nhiên, sản xuất NNHC của vùng vẫn còn quy mô nhỏ, phân tán, liên kết chuỗi giá trị chưa chặt chẽ và chi phí chứng nhận còn cao. Trên cơ sở đó, báo cáo khẳng định việc định hướng phát triển NNHC theo lợi thế sinh thái, tăng cường liên kết vùng và xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định là giải pháp then chốt, góp phần thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.

Sau phần trình bày của các thành viên nhóm thực hiện đề tài, các chuyên gia tham dự hội thảo đã đưa ra nhiều câu hỏi thảo luận về thành phần trong các bản đồ chuyên đề về đơn vị sinh thái, các loại cây trong từng nhóm cụ thể được khuyến nghị,…

Quang cảnh hội thảo

Phát biểu tổng kết hội thảo, TS. Nguyễn Quốc Khánh đánh giá cao các kết quả mà nhóm nghiên cứu đã đạt được tính đến thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cần tiếp thu các ý kiến đóng góp của các chuyên gia tại buổi hội thảo để hoàn thiện sản phẩm, chuẩn bị tốt nhất cho việc nghiệm thu.