Sáng ngày 08/12, tại TP. Cần Thơ, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Dự án thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long – Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (MCRP-GIZ) tổ chức Hội thảo “Tình hình ban hành và thực hiện pháp luật ứng phó với Biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2021 và giải pháp trong thời gian tới”.
Hội thảo có sự tham gia của Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy và các thành viên của Ủy ban; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Phạm Thúy Chinh cùng một số đại biểu Quốc hội; đại diện lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường và một số Bộ ngành liên quan. Về phía Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (MCRP-GIZ) có ông Oemar Idoe – Phó Giám đốc Tổ chức GIZ tại Việt Nam; ông Christoph Klinnert- Giám đốc Dự án MCRP- GIZ. Đại diện Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu có TS. Nguyễn Đăng Mậu (Giám đốc trung tâm Khí tượng Nông nghiệp).
Toàn cảnh hội thảo
Phát biểu khai mạc hội thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy khẳng định: Ứng phó với biến đổi khí hậu đang ngày càng trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, đặc biệt được quan tâm trong bối cảnh thế giới đang chịu tác động nặng nề của đại dịch COVID-19. Việt Nam xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và đã rất tích cực, chủ động tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong thời gian qua, Quốc hội Việt Nam luôn chú trọng việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện chính sách, phát luật về ứng phó với BĐKH. Theo đó, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường là cơ quan của Quốc hội được phân công phụ trách và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc chủ trì, phối hợp thẩm tra, giám sát, kiến nghị thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Hội thảo cũng là một trong số các hoạt động hợp tác tiếp nối giữa Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và MCRP-GIZ.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận về các nội dung: Tình hình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BĐKH ở Việt Nam; Việc thực hiện Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; Đánh giá kết quả chủ yếu đạt được; Khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị; Hiệu quả các dự án đầu tư thuộc chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh; Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả việc thực hiện pháp luật về ứng phó với BĐKH trong thời gian tới.
TS.Nguyễn Đăng Mậu phát biểu tại hội thảo
Kiến nghị cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, TS.Nguyễn Đăng Mậu – Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu cho rằng: Việc ban hành luật về BĐKH của quốc gia phát triển và đang phát triển có sự khác nhau. Các quốc gia phát triển với cam kết quốc tế về cắt giảm phát thải khí nhà kính, việc ban hành Luật là điều cần thiết để đảm bảo hành lang pháp lý cho việc triển khai hành động nhằm đạt được mục tiêu và cam kết đã đề ra. Với các quốc gia đang phát triển, vấn đề cắt giảm khí nhà kính là không bắt buộc, nhưng với nhìn nhận BĐKH là cơ hội để chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp, nên nhiều quốc gia cũng đã sớm ban hành Luật. Sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và cho đến nay, hầu hết các quốc gia đã cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính và hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, nên vấn đề xây dựng văn bản luật về BĐKH đã trở thành một xu thế tất yếu. Các thỏa thuận quốc tế được xem là văn bản luật quốc tế, ràng buộc các quốc gia tham gia thực hiện, với các ràng buộc quốc tế ngày càng khắt khe hơn trong việc đảm bảo cắt giảm phát thải khí nhà kính.
Theo TS. Nguyễn Đăng Mậu, ở Việt Nam, hoạt động ứng phó với BĐKH là rất rộng, từ Chiến lược, kế hoạch đến Chương trình, dự án, từ Trung ương đến địa phương. Việc đánh giá tổng thể và đầy đủ các hoạt động ứng phó với BĐKH cần được triển khai một cách bài bản gồm: Đánh giá thực trạng thực hiện Chiến lược, kế hoạch quốc gia về biến đổi khí hậu và các cam kết quốc tế của Việt Nam; Đánh giá thực trạng thực hiện Chương trình, dự án ứng phó với BĐKH. Việc rà soát và đánh giá tổng hợp công tác ứng phó với BĐKH cần làm rõ được về kết quả, tồn tại, hạn chế và khoảng trống; đánh giá cụ thể cho từng ngành, lĩnh vực và địa phương; Đề xuất được các giải pháp cho giai đoạn tiếp theo; đồng thời việc hoàn thiện thể chế cũng cần tiếp tục được nâng lên một bước.
Dựa trên thực trạng và yêu cầu trong thời gian tới, một số vấn đề hoàn thiện thế chế về BĐKH cần được quan tâm như sau: Sớm nghiên cứu, xây dựng Luật Biến đổi khí hậu làm căn cứ pháp lý cao nhất cho tổ chức mọi hoạt động ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Tốt nhất là hoàn thành vào năm 2025 để có cơ sở pháp lý cho thực hiện giai đoạn bắt đầu từ năm 2026. Xây dựng và ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư giảm phát thải trong các lĩnh vực; các chính sách thương mại và phát triển thúc đẩy phát triển bền vững; sản xuất và tiêu dùng hàng hóa bền vững, không làm mất rừng và suy thoái rừng; nông nghiệp bền vững, thúc đẩy an ninh lương thực và tránh gây hại cho môi trường.
Ngoài ra, Việt Nam cần hoàn thiện chính sách, thể chế cũng như tiếp tục nâng cao năng lực để quản lý tốt hơn và thực hiện các nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính, kiểm kê khí nhà kính. Theo đó, cần tăng cường năng lực theo dõi tiến trình thực hiện NDC theo quy định của Khung tăng cường minh bạch (ETF); tiến tới xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định hoạt động giảm phát thải khí nhà kính quốc gia (MRV) theo ETF của Thoả thuận Paris để theo dõi quá trình thực hiện NDC hướng tới đáp ứng việc trao đổi những kết quả giảm nhẹ trên thị trường quốc tế.