Sáng ngày 6/6, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (KTTVBĐKH) đã tổ chức Hội thảo khoa học lấy ý kiến chuyên gia trước khi nghiệm thu của nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Quốc gia “Nghiên cứu khả năng chống chịu của hệ thống công trình phòng chống lũ, xây dựng công nghệ nhận dạng lũ lớn, tổ hợp lũ bất lợi trên lưu vực sông Hồng và đề xuất giải pháp ứng phó” do TS. Lương Hữu Dũng làm chủ nhiệm.
TS. Nguyễn Quốc Khánh (Phó Viện trưởng Viện KTTVBĐKH) chủ trì hội thảo
Buổi hội thảo diễn ra dưới sự chủ trì của TS. Nguyễn Quốc Khánh với sự tham gia của các chuyên gia về lĩnh vực Thủy văn học thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các thành viên trong nhóm thực hiện đề tài.
Tại hội thảo, TS. Lương Hữu Dũng đã trình bày báo cáo kết quả thực hiện đề tài. Tính đến thời điểm hiện tại, đề tài đã hoàn thành được mục đề ra, trong đó có 2 mục tiêu chính bao gồm: Đánh giá được khả năng chống chịu trên hệ thống sông Hồng và đề xuất được giải pháp ứng phó với trường hợp xảy ra lũ lớn, tổ hợp lũ bất lợi trên lưu vực sông; Xây dựng được hệ thống nhận dạng lũ trên lưu vực sông Hồng.
Đối với khả năng chống chịu: Đối với trận lũ cho chu kỳ lặp lại 300 năm thì khả năng chống chịu được đối với hệ thống là gia tăng được dung tích khoảng 3 tỷ cho lưu vực sông Đà, khi gia tăng dung tích vượt 3 tỷ thì mực nước Hà Nội bắt đầu vượt 13,1m là khi đó hệ thống vượt khả năng chống chịu. Đối với trận lũ cho chu kỳ lặp lại 500 năm thì khi gia tăng dung tích vượt đến 1,5 tỷ thì mực nước Hà Nội bắt đầu vượt 13,4m; tức là khi đó hệ thống vượt khả năng chống chịu với trận lũ như vậy, đề xuất dung tích được phép phân bổ theo hướng chủ động trên nhánh sông Đà ứng với trận lũ 500 năm là 1,0 tỷ m3.
TS. Lương Hữu Dũng trình bày tại hội thảo
Đề tài đã cập nhật mô hình thủy văn thủy lực phục vụ tính toán thoát lũ và dự bào dòng chảy trên hệ thống. Ngoài ra, đề tài xây dựng được các mô hình nhận dạng lũ tại các vị trí chính trên sông Hồng bao gồm: hồ Sơn la (trên sông Đà), trạm Yên Bái (trên sông Thao) và trạm Hàm Yên (trên sông Lô). Trong báo cáo, các mô hình hồi quy nhiều biến, học máy (XGBoost), học sâu (ANN và MLP) được thiết lập, xây dựng để huấn luyện mô hình và dự báo kiểm tra cho những năm gần đây.
Các dữ liệu đầu vào phục vụ nhận dạng đỉnh lũ hạn dài bao gồm các yếu tố khí tượng ở quy mô khu vực, các yếu tố khí tượng ở quy mô lưu vực và các yếu tố thủy văn tại trạm. Đối với nhận dạng đỉnh lũ hạn vừa, các yếu tố sử dụng là đặc trưng chân lũ và lượng mưa tích lũy tại các trạm lân cận. Các yếu tố này được phân tích, xử lý để sàng lọc, lựa chọn được những đầu vào dự báo quan trọng, tránh gây nhiễu cho bài toán hồi quy đa biến, học máy và học sâu.
Các mô hình nhận dạng được xây dựng cho các vị trí trạm Tạ Bú (hồ Sơn La), Yê Bái và Hàm Yên cho cả lũ sớm, lũ chính vụ và lũ muộn. Kết quả xây dựng mô hình hồi quy đa biến cho kết quả là các phương trình hồi quy với hệ số tương quan từ 0,27-0,76. Kết quả tốt tại trạm Hàm Yên trong kỳ lũ chính vụ và lũ muộn, các trạm còn lại cho hệ số tương quan <0,5. Mô hình học XGBoost là mô hình vượt trội cả về hệ số tương quan lẫn sai số tuyệt đối trung bình MAE khi tiến hành nhận dạng đỉnh lũ tại cả ba vị trí trạm Tạ Bú, Yên Bái và Hàm Yên. Trong khi đó mô hình học sâu MLP cho kết quả học tốt tại trạm Tạ Bú và Hàm Yên nhưng kém hơn ở Yên Bái.
Quang cảnh hội thảo
Sau khi nghe chủ nhiệm đề tài trình bày, các chuyên gia tham dự hội thảo đã đưa ra nhiều ý kiến đóng góp. Trong đó đa số đánh giá cao khối lượng công việc đồ sộ mà đề tài đã hoàn thành. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng, để đánh giá sự chống chịu của công trình trên lưu vực sông Hồng thì đề tài nên xem xét đến các công trình trước giai đoạn ban hành Nghị định để tăng tính thuyết phục khi đưa ra các con số về lượng trữ của hệ thống.
Phòng Khoa học, Đào tạo, Hợp tác quốc tế và Tạp chí tuyên bố lý do hội thảo
Phát biểu tổng kết hội thảo, TS. Nguyễn Quốc Khánh cho rằng, nhóm nghiên cứu cần làm rõ tính mới của đề tài và khả năng ứng dụng trong công tác quản lý nhà nước. Đồng thời, cần bổ sung, làm rõ các nội dung liên quan đến Sản phầm 4, 5; cấu trúc lại báo cáo theo các sản phẩm chính và chuẩn bị đầy đủ các sản phẩm phục vụ các hội đồng sau.