Xây dựng cơ sở khoa học phân vùng phát triển cây dược liệu và cây trồng chủ lực gắn với kinh tế rừng sinh thái cho Quảng Ninh

Ngày 30/6, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu (KTTVBĐKH) tổ chức họp hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở cho đề tài KHCN cấp tỉnh: “Nghiên cứu phân vùng khu vực phát triển cây dược liệu và cây trồng chủ lực cho tỉnh Quảng Ninh dựa trên đặc trưng tài nguyên khí hậu và tài nguyên đất”, do TS. Nguyễn Đăng Mậu làm chủ nhiệm.

TS. Nguyễn Quốc Khánh chủ trì buổi nghiệm thu

Buổi nghiệm thu do TS. Nguyễn Quốc Khánh – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu chủ trì với sự tham gia của thành viên Hội đồng, các chuyên gia về lĩnh vực khí tượng nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Trình bày tại buổi đánh giá, TS. Nguyễn Đăng Mậu cho biết, đề tài đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu, phân tích và phân vùng sinh thái phù hợp cho các loài cây dược liệu và cây lâm nghiệp chủ lực tại tỉnh Quảng Ninh, đáp ứng đầy đủ các mục tiêu đã đề ra.

Cụ thể, về mặt khoa học, đề tài đã tổng hợp và xác định được bộ chỉ tiêu sinh thái (khí hậu và đất đai) của 15 loại cây trồng đặc thù bao gồm 8 cây dược liệu và 7 cây lâm nghiệp chủ lực. Việc định lượng các chỉ tiêu về nhiệt độ, lượng mưa, độ cao, loại đất phù hợp cho từng cây giúp làm rõ yêu cầu sinh thái và khả năng thích ứng sinh học của từng loài trong điều kiện địa phương. Đây là cơ sở khoa học quan trọng phục vụ công tác quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên đất – khí hậu bền vững.

Về mặt ứng dụng, thông qua việc sử dụng mô hình LUSET và tích hợp dữ liệu khí hậu – đất đai, đề tài đã xây dựng bản đồ phân vùng mức độ phù hợp sinh thái của từng loại cây theo đơn vị hành chính cấp huyện. Kết quả này giúp nhận diện các vùng trọng điểm, vùng tiềm năng, vùng cần cải thiện điều kiện để phát triển cây trồng, tạo cơ sở khoa học để lồng ghép vào quy hoạch phát triển nông – lâm nghiệp và du lịch sinh thái.

Đề tài đã đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến sự thay đổi vùng thích hợp cho từng loại cây trồng, từ đó cảnh báo nguy cơ thu hẹp vùng phân bố của một số loài dược liệu quý trong tương lai và đề xuất các chiến lược thích ứng.

Cùng với đó, hệ thống bản đồ và dữ liệu được tích hợp trên nền tảng WebGIS cho phép chia sẻ, cập nhật và sử dụng hiệu quả trong công tác quản lý, đào tạo, tuyên truyền và kết nối với các chương trình phát triển OCOP, du lịch sinh thái địa phương.

Các chuyên gia tham dự buổi nghiệm thu

Tuy nhiên, để đạt được kết quả tốt nhất, TS. Nguyễn Đăng Mậu kiến nghị rằng, cần tích hợp kết quả phân vùng sinh thái vào các quy hoạch tỉnh, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển lâm nghiệp, quy hoạch phát triển vùng dược liệu của tỉnh Quảng Ninh, đảm bảo phát triển các cây trồng theo vùng sinh thái phù hợp. Ưu tiên đầu tư phát triển các mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng, mô hình kinh tế lâm dược kết hợp với du lịch cộng đồng tại các vùng có điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi như Ba Chẽ, Hoành Bồ, Tiên Yên, Bình Liêu. Xây dựng chính sách hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, phát triển giống cây dược liệu bản địa chất lượng cao và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm.

Các thành viên hội đồng nhận xét về sản phẩm của đề tài

Đồng thời, đẩy mạnh số hóa thông tin và hoàn thiện hệ thống WebGIS phục vụ công tác quy hoạch, quản lý, tuyên truyền và thúc đẩy kết nối với thị trường, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tiếp tục cập nhật dữ liệu khí hậu, đất đai, theo dõi các tác động của biến đổi khí hậu và xu hướng sử dụng đất, từ đó điều chỉnh mô hình phát triển cây trồng chủ lực theo hướng thích ứng linh hoạt và bền vững.

Phòng Khoa học, Đào tạo, Hợp tác quốc tế và Tạp chí công bố kết quả đánh giá của các thành viên hội đồng

Những sản phẩm của đề tài được các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đánh giá đạt. Theo TS. Nguyễn Quốc Khánh, đề tài đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học phân vùng khu vực phát triển cây dược liệu và cây trồng chủ lực cho tỉnh Quảng Ninh dựa trên đặc trưng tài nguyên khí hậu và tài nguyên đất. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cần chỉnh sửa, bổ sung theo các góp ý của thành viên Hội đồng để hoàn thiện sản phẩm cho việc nghiệm thu tại cấp tỉnh.