Trước thông tin về nghiên cứu mới nhất của nhóm chuyên gia ĐH Utrecht (Hà Lan) về Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam chỉ còn cao hơn mực nước biển 0,8m, chênh lệch gần 2m so với các dữ liệu vệ tinh thường được trích dẫn (2,6m), theo bà Huỳnh Thị Lan Hương, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT), đây là bài báo có ý nghĩa về mặt khoa học, tuy nhiên, các cơ quan, địa phương khi đánh giá nguy cơ ngập do nước biển dâng cần sử dụng số liệu chính thức do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố.
Nghiên cứu của Philip Minderhoud và các cộng sự từ Đại học Utrecht và Viện nghiên cứu đồng bằng (Hà Lan) đã trình bày những phát hiện, phân tích khá đầy đủ về vấn đề sử dụng số liệu địa hình khi đánh giá ngập lụt cũng như tính dễ bị tổn thương gây ra bởi nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Bài báo đã chứng minh rằng, việc sử dụng mô hình số độ cao (SRTM và DEM) nếu không được quy chiếu về cao độ quốc gia (theo mực nước trung bình tại Hòn Dáu) sẽ dẫn tới đánh giá không chính xác về nguy cơ ngập lụt cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Thực tế đây không phải là vấn đề mới. Theo Phó Viện trưởng Huỳnh Thị Lan Hương, từ năm 2016, Bộ TN&MT đã công bố kịch bản Biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tại kịch bản này, số liệu địa hình được sử dụng để xây dựng bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng cho khu vực ĐBSCL được lấy từ Mô hình số địa hình kích thước ô lưới là 2mx2m của 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, do Cục Viễn thám Quốc gia thực hiện năm 2008 và Bản đồ số địa hình tỷ lệ 1:2.000 do dự án bay chụp Lidar của Cục Đo đạc Bản đồ Việt Nam thực hiện năm 2016. Các số liệu này đều được quy chuẩn theo mốc quốc gia.
Trong khi đó, số liệu bản đồ địa hình mà nghiên cứu của Philip Minderhoud và các cộng sự sử dụng có tỷ lệ 1:200.000 là khá thô, không phải là nguồn số liệu địa hình tốt nhất mà Việt Nam có hiện nay.
“Đây là bài báo có ý nghĩa về mặt khoa học, tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, bản đồ số độ cao do Bộ TN&MT sử dụng trong xây dựng bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng trong kịch bản năm 2016 là nguồn số liệu cập nhật và tốt nhất. Các cơ quan, địa phương khi đánh giá nguy cơ ngập do nước biển dâng cần sử dụng số liệu chính thức do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố”, bà Hương nhấn mạnh.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Nghiên cứu của Philip Minderhoud và các cộng sự có đề cập việc số người dân chịu ảnh hưởng bởi nước biển dâng ở ước tính khoảng 12 triệu người, nhưng chưa đưa ra đủ cơ sở khoa học để có thể đặt ra vấn đề di dân.
Theo bà Hương, để có thể đưa ra các chính sách ảnh hưởng đến kinh tế – xã hội, không thể chỉ dựa vào 1 nhận định, cần có các phân tích từ nhiều nghiên cứu khoa học, phân tích tác động đến kinh tế – xã hội. Khi chuyển giao bản đồ nguy cơ ngập theo kịch bản nước biển dâng do biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên MT cũng khuyến cáo các địa phương cần cân nhắc, bổ sung thông tin về sụt lún cục bộ đia phương thông qua các kết quả nghiên cứu chính thống được khẳng định và tham khảo các kết quả nghiên cứu khác để đạt được sự đồng thuận về khoa học.
Hiện nay, Bộ TN&MT cũng đã hoàn thành giai đoạn tiếp theo của việc đo đạc địa hình khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng đang tiếp tục được cập nhật. Dự kiến, trong thời gian tới, Viện Khoa học KTTV&BĐKH sẽ tiếp tục cập nhật các bản đồ nguy cơ ngập do nước biển dâng từ dữ liệu cập nhật này trong các kịch bản sau.
Khánh Ly