Những thành tựu nổi bật của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu năm 2018

Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (Viện KTTVBĐKH) là tổ chức khoa học và công nghệ công lập trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, có chức năng nghiên cứu cơ bản, phát triển công nghệ về khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu; đào tạo trình độ tiến sĩ cho các chuyên ngành khí tượng khí hậu học, thủy văn học, hải dương học, quản lý tài nguyên và môi trường và biến đổi khí hậu.

Trong năm 2018, các kết quả nghiên cứu của Viện KTTVBĐKH đã được đẩy mạnh nhằm cung cấp các cơ sở khoa học phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường, góp phần vào sự phát triển ngành tài nguyên và môi trường nói riêng và phục vụ kinh tế – xã hội của đất nước nói chung. Những đóng góp quan trọng của Viện KTTVBĐKH trong năm 2018 được thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể sau đây:

Lĩnh vực Khí tượng – Khí hậu và Khí tượng nông nghiệp:

Năm 2018, Viện KTTVBĐKH đã và đang triển khai thực hiện 03 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Quốc gia về “Nghiên cứu xây dựng hệ thống nghiệp vụ dự báo khí hậu hạn mùa cho Việt Nam bằng các mô hình động lực”, “Nghiên cứu xây dựng hệ thống nghiệp vụ dự báo định lượng mưa khu vực Nam Bộ và cảnh báo mưa lớn hạn cực ngắn cho thành phố Hồ Chí Minh” và “Nghiên cứu các giải pháp khoa học và công nghệ quản lý đa thiên tai, xây dựng công cụ hỗ trợ ra quyết định ứng phó với đa thiên tai, áp dụng thí điểm cho khu vực ven biển Trung Trung Bộ”.

Hiện nay, dự báo được tiến hành phổ biến ở các nước là dự báo khí hậu ngắn hạn. Dự báo hạn vừa chỉ được tiến hành cho một số trường hợp như dự báo hiện tượng ENSO (từ 12 đến 18 tháng), còn dự báo khí hậu hạn dài thường chỉ được đề cập trong các nghiên cứu về biến đổi khí hậu, phục vụ việc thiết lập các “kịch bản về biến đổi khí hậu”. Viện KTTVBĐKH đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống nghiệp vụ dự báo khí hậu hạn mùa cho Việt Nam bằng các mô hình động lực” với mục đích nâng cao năng lực dự báo khí hậu hạn mùa và đưa các mô hình động lực vào dự báo nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin dự báo khí hậu ngày càng cao của các ngành, địa phương trong phát triển kinh tế xã hội, phòng tránh thiên tai. Kết quả đề tài đạt được: (1) Ứng dụng và phát triển được các mô hình động lực vào dự báo hạn mùa (đến 6 tháng) các trường khí hậu trung bình tháng và một số hiện tượng khí hậu cực đoan cho Việt Nam; (2) Xây dựng được hệ thống tổ hợp dự báo hạn mùa từ sản phẩm dự báo của các mô hình động lực; (3) Thiết lập được hệ thống dự báo ở chế độ nghiệp vụ.

Trong công tác dự báo nghiệp vụ thời tiết, dự báo định lượng mưa (trước một vài giờ đến 3 ngày) là một trong những bài toán khó nhất, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả những nước có nền khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Dự báo mưa, đặc biệt là các trận mưa lớn càng trở nên khó hơn đối với khu vực nhiệt đới gió mùa, nơi có sự tương tác giữa các hệ thống thời tiết quy mô khác nhau, giữa hệ thống hoàn lưu quy mô vừa, quy mô địa phương địa hình. Chính vì vậy, Viện KTTVBĐKH đã triển khai nghiên cứu xây dựng hệ thống nghiệp vụ dự báo định lượng mưa cho khu vực Nam Bộ và cảnh báo mưa lớn hạn cực ngắn cho thành phố Hồ Chí Minh với mục đích cung cấp các thông tin dự báo, cảnh báo sớm định lượng mưa hạn 1 đến 3 ngày cho khu vực Nam Bộ và mưa lớn hạn cực ngắn cho Thành phố Hồ Chí Minh phục vụ công tác ứng phó và giảm thiểu các thiệt hại về con người, kinh tế – xã hội và môi trường. Kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở khoa học về các đặc trưng hoàn lưu khí quyển gây mưa lớn cho khu vực Nam Bộ cũng như cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu dự báo định lượng mưa và cảnh báo mưa lớn hạn cực ngắn; Phát triển công nghệ giám sát, cảnh báo, dự báo hiện đại cho ngành KTTV; Góp phần nâng cao năng lực dự báo định lượng mưa lớn tại Đài KTTV Nam Bộ.

Bên cạnh đó, Viện KTTVBĐKH vẫn tiếp tục cung cấp các bản tin thời tiết, bản tin dự báo bão, áp thấp nhiệt đới và mưa lớn, ra thông báo và dự báo khí hậu hàng tháng. Các bản tin khí tượng nông nghiệp được thông báo hàng tháng nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các quan trắc khí tượng nông nghiệp phục vụ phát báo điện 04 ốp/ngày gửi đến Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia là nguồn số liệu đáng tin cậy phục vụ công tác dự báo thời tiết, đặc biệt là mưa lớn ở khu vực Hà Nội. Một số nội dung nghiên cứu tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới: (1) Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ quy hoạch, phân loại hạng trạm và lồng ghép mạng lưới quan trắc khí tượng nông nghiệp trong tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường; (2) Nghiên cứu xây dựng hệ thống cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo thời tiết ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long; (3) Nghiên cứu xây dựng mô hình dự báo xu thế mùa bão (số cơn bão, cường độ và thời gian hoạt động bão) bằng chỉ số năng lượng bão trên Biển Đông phục vụ xây dựng kế hoạch ứng phó với thiên tai bão; (4) Nghiên cứu ảnh hưởng của ENSO tới các yếu tố khí tượng thủy văn và môi trường biển trên khu vực Biển Đông phục vụ công tác dự báo và quản lý môi trường biển.

Đặc biệt trong năm 2018, Viện KTTVBĐKH tiếp tục chú trọng mở rộng các nghiên cứu về thiên tai, đa thiên tai: (1) Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cấp độ rủi ro thiên tai do hạn hán và xâm nhập mặn, áp dụng thử nghiệm cho khu vực Nam Bộ; (2) Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng quy trình xác định cấp độ rủi ro thiên tai do bão, áp thấp nhiệt đới và nước dâng do bão; (3) Nghiên cứu cơ sở khoa học phân cấp độ rủi ro cho các loại hình thiên tai ở Việt Nam; (4) Nghiên cứu các giải pháp khoa học và công nghệ quản lý đa thiên tai, xây dựng công cụ hỗ trợ ra quyết định ứng phó với đa thiên tai, áp dụng thí điểm cho khu vực ven biển Trung Trung Bộ. Đặc biệt Viện phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ triển khai Chương trình: “Cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, trượt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn”, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 07/6/2018.

Lĩnh vực Thủy văn và Hải văn

Trong năm 2018, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng trong lĩnh vực thủy văn và hải văn, đặc biệt là các nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ công tác dự báo khí tượng thủy văn như: Cung cấp các bản tin dự báo lũ trên hệ thống sông Hồng – Thái Bình hàng ngày; cung cấp các bản tin dự báo khí tượng thủy văn biển hàng ngày; cung cấp các thông tin cảnh báo lũ quét khi có nguy cơ thiên tai xảy ra; cung cấp các bản tin sóng biển, nước dâng khi có bão, Viện còn chủ trì thực hiện các Dự án như: “Điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét khu vực miền Trung, Tây Nguyên và xây dựng hệ thống thí điểm phục vụ cảnh báo cho các địa phương có nguy cơ cao xảy ra lũ quét phục vụ công tác quy hoạch, chỉ đạo điều hành phòng tránh thiên tai thích ứng với biến đổi khí hậu”; Dự án “Xây dựng chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, trượt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn”; Dự án “Điều chỉnh, bổ sung mực nước tương ứng các cấp báo động lũ trên các sông thuộc phạm vi cả nước”, “Xác định hành lang thoát lũ hạ lưu hệ thống sông lớn các tỉnh Miền Trung, phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế xã hội và công tác chỉ đạo ứng phó, phòng chống thiên tai” và “Tăng cường nhiệm vụ quản lý rủi ro thiên tai (lũ lụt, lũ quét) và bảo vệ môi trường các lưu vực sông biên giới thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng”.

Bên cạnh đó, với mục tiêu (1) Xây dựng được phương pháp đánh giá và xác định được cấp độ rủi ro do lũ quét gây ra cho các lưu vực sông miền núi và (2) Đánh giá được mức độ rủi ro do lũ quét gây ra cho lưu vực sông Ngàn Phố – Ngàn Sâu làm cơ sở đề xuất các giải pháp giảm nhẹ rủi ro do lũ quét. Viện đã thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ về “Nghiên cứu, đánh giá rủi ro do lũ quét phục vụ công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai cho các lưu vực sông miền núi – Áp dụng thí điểm cho lưu vực sông Ngàn Phố – Ngàn Sâu”. Sản phẩm được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học và các phương pháp đánh giá có độ chính xác và tin cậy cao do đó khả năng ứng dụng thực tiễn mang lại hiệu quả cao trong công tác phòng tránh và giảm thiểu rủi ro do lũ quét. Kết quả của nhiệm vụ tạo cơ sở khoa học để các đơn vị quản lý nhà nước như Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Ban chỉ huy phòng chống Lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn, các Đài Khí tượng trên cả nước xây dựng kế hoạch, chiến lược phòng tránh thiên tai. Đồng thời góp phần tạo cơ sở khoa học để triển khai các dự án chuyên ngành về khí tượng thủy văn, môi trường và biến đổi khí hậu thực thi các yêu cầu của thực tiễn về phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai cho các lưu vực sông miền núi.

 
Bản đồ mức độ rủi ro do lũ quét cho LVS Ngàn Phố – Ngàn Sâu 

Viện cũng đã đánh giá tác động của sự thay đổi sử dụng đất đến tài nguyên nước lưu vực sông Se San – Serepok. Kết quả cho thấy, ba nhóm Sử dụng đất là đất lâm nghiệp (đất rừng), đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm có tác động tích cực đến sự phân bố TNN mặt trong năm. Trong đó, nhóm đất rừng có tác động mạnh nhất đến TNN mặt. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thêm cơ sở cho các nhà quản lý ở địa phương trong công tác quy hoạch sử dụng đất đảm bảo an toàn về nguồn nước.

 
 
Viện cũng đã xây dựng và chuyển giao thành công công nghệ dự báo tài nguyên nước mặt phục vụ lập kế hoạch sử dụng nước cho lưu vực sông Ba và sông Kôn ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ngoài ra, đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu khác như “Nghiên cứu cơ sở khoa học phân cấp cấp độ rủi ro thiên tai cho các loại hình thiên tai ở Việt Nam” và “Nghiên cứu ảnh hưởng của ENSO đến các yếu tố khí tượng, thủy văn và môi trường biển Việt Nam phục vụ công tác dự báo và quản lý môi trường biển”, ‘‘Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để cảnh báo và đề xuất giải pháp kiểm soát ngập lụt ở lưu vực sông Bàn Thạch”, ‘‘Đánh giá rủi ro đa thiên tai cho lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cho khu vực ven biển Bắc Bộ” và ‘‘Tác động của suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu đến đời sống của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay”.

Lĩnh vực Biến đổi khí hậu

Viện duy trì thường xuyên việc tham gia các nhóm công tác của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC); tham gia thực hiện Khung toàn cầu về dịch vụ khí hậu (GFCS); chủ trì tham gia các hoạt động liên quan đến Hội đồng Tư vấn Khoa học và Công nghệ của Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (SBSTA) theo phân công của Bộ; tham gia hợp tác về môi trường và biến đổi khí hậu với Hàn Quốc và các đối tác quốc tế khác. Bên cạnh đó, Viện vẫn tiếp tục các hướng nghiên cứu khác về biến đổi khí hậu như: Nghiên cứu xây dựng được hệ thống giám sát – báo cáo – thẩm định các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam; Đề xuất các chính sách, công cụ phục vụ vận hành hệ thống giám sát – báo cáo – thẩm định các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu quốc tế; Đề xuất dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết cho việc vận hành hệ thống giám sát – báo cáo – thẩm định các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam và quy trình cập nhật thông tin, dữ liệu cho hệ thống giám sát – báo cáo – thẩm định các cấp (quốc gia, ngành, địa phương); Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng thị trường Các bon tại Việt Nam; Lồng ghép biến đổi khí hậu vào các lĩnh vực như: Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định bộ tiêu chí đánh giá rủi ro do biến đổi khí hậu (BĐKH) đến tài nguyên nước (TNN) mặt nhằm đề xuất giải pháp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh, thử nghiệm cho quy hoạch tài nguyên nước của một tỉnh điển hình.

Trong năm 2018, Viện KTTVBĐKH cũng triển khai các nội dung chuẩn bị cho các dự án: Xây dựng, cập nhật kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; Xây dựng hệ thống báo cáo đo đạc kiểm chứng quốc gia cho các hành động giảm nhẹ; Đánh giá khí hậu quốc gia; Đánh giá đồng lợi ích của các hành động giảm nhẹ cho NDC; Kiểm kê khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng và các quá trình công nghiệp phục vụ thông báo quốc gia lần thứ ba (TNC). Viện cũng có nhiều đóng góp nội dung cho báo cáo Cập nhật báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC); xây dựng Kế hoạch tổng thể thực hiện nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững thích ứng với BĐKH vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Lĩnh vực Môi trường

Viện tiếp tục giữ vai trò chủ trì thực hiện các nhiệm vụ trong Mạng lưới giám sát lắng đọng a xít vùng Đông Á (EANET) và tập trung mũi nhọn nghiên cứu các vấn đề: Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và lập bản đồ phân bố lắng đọng axít tại Việt Nam; Xây dựng mô hình quản lý tổng hợp, tuần hoàn và tái sử dụng chất thải của một số làng nghề tái chế lưu vực sông Nhuệ – Đáy; Công tác nghiên cứu môi trường của Viện KTTVBĐKH đã tập trung vào các lĩnh vực xây dựng và mang tính ứng dụng trong thực tế; Các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực môi trường của Viện đã đóng góp đáng kể vào công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường của ngành tài nguyên môi trường.

Đặc biệt, năm 2018 công tác nghiên cứu môi trường của Viện đã đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu vào các vấn đề nóng bỏng được toàn xã hội quan tâm, góp phần vào công tác quản lý môi trường của ngành như: Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và lập bản đồ phân bố lắng đọng axít ở Việt Nam; Điều tra, khảo sát xác định nguồn gốc và đặc tính ô nhiễm nitrate (NO3) và phosphate (PO43-) phục vụ kiểm soát nguồn ô nhiễm nước mặt hạ lưu Sông Cầu; Nghiên cứu mô phỏng bụi PM2.5 cho Việt Nam phụ vụ dự báo chất lượng môi trường không khí; Nghiên cứu dự báo lan truyền ô nhiễm không khí.

 

Bên cạnh đó, Viện đã bước đầu thực hiện nghiên cứu, đánh giá nguyên nhân bồi lắng hồ Ba Bể, đánh giá tình hình sạt lở, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long….

Tóm lại, có thể thấy rằng, các hoạt động khoa học công nghệ được Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu nghiên cứu và triển khai đã phục vụ tích cực cho công tác quản lý của Bộ Tài Nguyên và Môi trường. Các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đang được ứng dụng trong các đơn vị trong và ngoài Bộ Tài nguyên và Môi trường góp phần nâng cao chất lượng dự báo khí tượng thủy văn, hải văn, môi trường và biến đổi khí hậu, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi cả nước.

Phòng KHĐTHTQT

Trả lời